Dạy
ĐỀ CƯƠNG
I. Giới thiệu
Trần Nhân Tông (1258-1308) là vị vua nổi tiếng nhân từ, thương dân, yêu nước.
-Ông đã cùng với vua cha (Trần Thánh Tông) và các tướng tài như Trần Hưng Đạo, Trần Quang Khải… lãnh đạo nhân dân ta nhiều lần đánh thắng quân Nguyên – Mông xâm lược.
-Bài thơ Chiều đứng ở phủ Thiên Trường trông ra, được vua sáng tác nhân dịp về thăm quê ở phủ Thiên Trường (Nam Định), sau khi đất nước được giải phóng. Nội dung ca ngợi khung cảnh thiên nhiên thôn quê thơ mộng và cuộc sống thanh bình của người dân.
II. Thân hình
* Cảnh chiều ở điện Thiên Trường:
Hai câu thơ đầu:
Hậu thôn làng yên bình,
Bán trạng thái bán dương (Sáng sớm sau thôn như khói lồng Bóng ai chiều dường như không)
-Tả cảnh làng quê lúc chiều tà, sương mù như khói bao trùm cả làng quê, mọi vật thấp thoáng như có, như không. Bức tranh đồng quê với những đường nét, màu sắc nhẹ nhàng, trang nhã.
-Hình ảnh giản dị, quen thuộc nhưng rất gợi cảm (làng quê, sương khói, bóng chiều…)
Hai câu cuối:
Mu dong, kẻ thù của con bò, đầu hàng cuối cùng,
Con đường trắng song song với cánh đồng chiêm trũng.
(Người chăn sáo trả lại cả đàn trâu,
Đôi cò trắng thả xuống ruộng.)
-Tiếp tục tả cảnh: tiếng sáo mục đồng ríu rít, lũ trâu đã về hết, từng đôi cò trắng chao cánh trên cánh đồng lúa xanh.
-Những cảm xúc xao xuyến, cháy bỏng trong trái tim nhà thơ – một vị vua có tâm hồn thơ mộng, xuất thân từ nông thôn, gắn bó mật thiết với quê hương, nhân dân.
III. Kết thúc
Bài thơ ngắn gọn, súc tích nhưng xứng đáng là thi ca của muôn đời.
Vẻ đẹp giản dị và tinh tế của nó để lại dấu ấn khó phai trong lòng người đọc.
PHÂN CÔNG
Trần Nhân Tông (1258-1308) tên thật là Trần Khâm, con trưởng của vua Trần Thánh Tông. Sau khi lên ngôi, ông tỏ ra là một vị vua nổi tiếng nhân ái và yêu nước. Ông đã cùng cha lãnh đạo hai cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Nguyên – Mông lập nhiều chiến công hiển hách (1285, 1288). Vốn là một Phật tử và là người sáng lập dòng Thiền Trúc Lâm theo hướng Việt Nam hóa Phật giáo, đến cuối đời, năm 1298, Ngài xuất gia và trụ trì tại chùa Yên Tử (Quảng Ninh ngày nay). Vua Trần Nhân Tông còn là nhà văn hóa, nhà thơ tiêu biểu của thời Trần.
Bài thơ “Chiều đứng phủ Thiên Trường” hình như được ông sáng tác trong một lần về thăm quê. Các vua Trần xây dựng tại quê hương một cung điện gọi là cung Thiên Trường để thỉnh thoảng về nghỉ ngơi. Mỗi dịp đến đó, các vua thường có thơ lưu lại, nay còn giữ được mấy bài, trong đó có bài này. Không xác định năm sáng tác, nhưng chắc chắn rằng bài thơ ra đời sau chiến thắng Nguyên Mông lần thứ ba không lâu, vào lúc cuộc sống yên bình của nhân dân đang được khôi phục (tức là khoảng những năm 90 của thế kỷ XX). thế kỷ 13).
Phiên âm chữ Hán: Thôn Thiên Trường Văn Vọng Hầu, thôn Tiên Ni Tư Yên,
Để bán, không phải để bán, cho lợi nhuận tích cực.
Mu dong, kẻ thù của con bò, đầu hàng cuối cùng,
Con đường trắng song song với cánh đồng chiêm trũng.
Chiều đứng ở phủ Thiên Trường nhìn ra sau làng, trước làng mờ như sương khói.
Cảnh bóng người chập chờn nửa như có nửa không. Người chăn dắt trâu về nhà theo tiếng sáo. Đôi cò trắng đáp xuống đồng.
Dịch thơ:
Trước thôn, sau thôn như khói lồng. Có phải bóng người trong chiều như bâng khuâng những mục đồng đưa trâu về? Đàn cò trắng từng đôi tung xuống ruộng.
(Ngô Tất Tố dịch)
Bài thơ tả cảnh chiều ở phủ Thiên Trường. Đây là cảnh một vùng quê yên ả như bao cảnh quê khác vào buổi chiều tà. Chỉ vài dòng giản dị: vài mái nhà tranh thấp thoáng trong sương như khói; vài đứa trẻ mục đồng đu mình trên lưng trâu thổi sáo dẫn trâu về chuồng; Vài đôi cò trắng tung cánh bay lượn trên cánh đồng…
Hai câu thơ đầu:
Hậu thôn quê yên vui,
Để bán, không phải để bán, cho lợi nhuận tích cực.
(Trước làng, sau làng như khói lồng,
Bóng chiều cuối hình như không).
Đây là cảnh chiều tà, vạn vật trước làng, sau làng dần chìm trong màn sương đang buông dần, quyện với làn khói tỏa ra từ mái bếp. Trong bóng tối man rợ, vạn vật thấp thoáng hiện ra, như có mà như không. Bức tranh quê với những gam màu quen thuộc của ánh hoàng hôn vàng đọng trên ngọn tre, của sương tím, cò trắng, lúa xanh… chỗ đậm, chỗ nhạt, tiếng sáo vi vu gợi cảm giác bâng khuâng. cuộc sống bình yên. trở lại sau nhiều năm khói lửa.
Hình ảnh trong bài thơ không có gì đặc sắc, rất giản dị, đời thường nhưng xúc động lạ lùng. Tại sao? Bởi nhân dân ta đã phải đổ máu, phải chịu biết bao đau thương, tang tóc mới giành lại cuộc sống yên bình từ tay quân xâm lược xâm lược.
Hai câu thơ cuối:
Mu dong, kẻ thù của con bò, đầu hàng,
Con đường trắng song song với cánh đồng chiêm trũng.
(Chàng mục tử thổi sáo trả trâu về, đôi cò trắng tung xuống ruộng.)
Nhà thơ đã lựa chọn hai hình ảnh tiêu biểu cho cảnh làng quê lúc chiều tà: một chú chăn trâu thổi sáo dẫn trâu về chuồng và đôi cò trắng sà xuống cánh đồng trống.
Thơ không chỉ đơn giản là kể – tả mà nó còn thể hiện một cảm xúc lạ lùng, một niềm vui đang rạo rực, rạo rực trong lòng nhà thơ. Nhìn đàn trâu no nê chậm rãi nối đuôi nhau về làng, trên lưng vài mục đồng đang thong thả thổi sáo; Nhìn ra xa (hy vọng), thấy trên đồng lúa xanh mướt, vài đàn cò trắng bay chập chờn, thử hỏi lòng nào không xao xuyến, bâng khuâng, không chan chứa yêu thương?
Cảnh chiều quê được tác giả phác họa thật giản dị, nhưng vẫn đượm màu quê, hồn quê. Điều đó chứng tỏ tác giả là một vị vua xuất thân từ nông dân, đã cùng nhau lăn lộn, vào sinh ra tử với nhân dân để đánh đuổi giặc ngoại xâm, giành lại cuộc sống bình yên cho đất nước. Dù ở địa vị cao nhất nhưng tâm hồn nhà vua – nhà thơ vẫn gắn bó với quê hương, nhân dân.
Bài thơ tuy ngắn nhưng xứng đáng là bài thơ của mọi thời đại bởi dù hàng trăm năm trôi qua nhưng sức lay động và chinh phục lòng người của nó vẫn nguyên vẹn như thuở ban đầu.
Nguồn: Vietvanhoctro.com
Cảm nghĩ về bài thơ Thiên Trường Vãn Vọng
Hình Ảnh về: Cảm nghĩ về bài thơ Thiên Trường Vãn Vọng
Video về: Cảm nghĩ về bài thơ Thiên Trường Vãn Vọng
Wiki về Cảm nghĩ về bài thơ Thiên Trường Vãn Vọng
Cảm nghĩ về bài thơ Thiên Trường Vãn Vọng -
Dạy
ĐỀ CƯƠNG
I. Giới thiệu
Trần Nhân Tông (1258-1308) là vị vua nổi tiếng nhân từ, thương dân, yêu nước.
-Ông đã cùng với vua cha (Trần Thánh Tông) và các tướng tài như Trần Hưng Đạo, Trần Quang Khải... lãnh đạo nhân dân ta nhiều lần đánh thắng quân Nguyên - Mông xâm lược.
-Bài thơ Chiều đứng ở phủ Thiên Trường trông ra, được vua sáng tác nhân dịp về thăm quê ở phủ Thiên Trường (Nam Định), sau khi đất nước được giải phóng. Nội dung ca ngợi khung cảnh thiên nhiên thôn quê thơ mộng và cuộc sống thanh bình của người dân.
II. Thân hình
* Cảnh chiều ở điện Thiên Trường:
Hai câu thơ đầu:
Hậu thôn làng yên bình,
Bán trạng thái bán dương (Sáng sớm sau thôn như khói lồng Bóng ai chiều dường như không)
-Tả cảnh làng quê lúc chiều tà, sương mù như khói bao trùm cả làng quê, mọi vật thấp thoáng như có, như không. Bức tranh đồng quê với những đường nét, màu sắc nhẹ nhàng, trang nhã.
-Hình ảnh giản dị, quen thuộc nhưng rất gợi cảm (làng quê, sương khói, bóng chiều...)
Hai câu cuối:
Mu dong, kẻ thù của con bò, đầu hàng cuối cùng,
Con đường trắng song song với cánh đồng chiêm trũng.
(Người chăn sáo trả lại cả đàn trâu,
Đôi cò trắng thả xuống ruộng.)
-Tiếp tục tả cảnh: tiếng sáo mục đồng ríu rít, lũ trâu đã về hết, từng đôi cò trắng chao cánh trên cánh đồng lúa xanh.
-Những cảm xúc xao xuyến, cháy bỏng trong trái tim nhà thơ - một vị vua có tâm hồn thơ mộng, xuất thân từ nông thôn, gắn bó mật thiết với quê hương, nhân dân.
III. Kết thúc
Bài thơ ngắn gọn, súc tích nhưng xứng đáng là thi ca của muôn đời.
Vẻ đẹp giản dị và tinh tế của nó để lại dấu ấn khó phai trong lòng người đọc.
PHÂN CÔNG
Trần Nhân Tông (1258-1308) tên thật là Trần Khâm, con trưởng của vua Trần Thánh Tông. Sau khi lên ngôi, ông tỏ ra là một vị vua nổi tiếng nhân ái và yêu nước. Ông đã cùng cha lãnh đạo hai cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Nguyên - Mông lập nhiều chiến công hiển hách (1285, 1288). Vốn là một Phật tử và là người sáng lập dòng Thiền Trúc Lâm theo hướng Việt Nam hóa Phật giáo, đến cuối đời, năm 1298, Ngài xuất gia và trụ trì tại chùa Yên Tử (Quảng Ninh ngày nay). Vua Trần Nhân Tông còn là nhà văn hóa, nhà thơ tiêu biểu của thời Trần.
Bài thơ “Chiều đứng phủ Thiên Trường” hình như được ông sáng tác trong một lần về thăm quê. Các vua Trần xây dựng tại quê hương một cung điện gọi là cung Thiên Trường để thỉnh thoảng về nghỉ ngơi. Mỗi dịp đến đó, các vua thường có thơ lưu lại, nay còn giữ được mấy bài, trong đó có bài này. Không xác định năm sáng tác, nhưng chắc chắn rằng bài thơ ra đời sau chiến thắng Nguyên Mông lần thứ ba không lâu, vào lúc cuộc sống yên bình của nhân dân đang được khôi phục (tức là khoảng những năm 90 của thế kỷ XX). thế kỷ 13).
Phiên âm chữ Hán: Thôn Thiên Trường Văn Vọng Hầu, thôn Tiên Ni Tư Yên,
Để bán, không phải để bán, cho lợi nhuận tích cực.
Mu dong, kẻ thù của con bò, đầu hàng cuối cùng,
Con đường trắng song song với cánh đồng chiêm trũng.
Chiều đứng ở phủ Thiên Trường nhìn ra sau làng, trước làng mờ như sương khói.
Cảnh bóng người chập chờn nửa như có nửa không. Người chăn dắt trâu về nhà theo tiếng sáo. Đôi cò trắng đáp xuống đồng.
Dịch thơ:
Trước thôn, sau thôn như khói lồng. Có phải bóng người trong chiều như bâng khuâng những mục đồng đưa trâu về? Đàn cò trắng từng đôi tung xuống ruộng.
(Ngô Tất Tố dịch)
Bài thơ tả cảnh chiều ở phủ Thiên Trường. Đây là cảnh một vùng quê yên ả như bao cảnh quê khác vào buổi chiều tà. Chỉ vài dòng giản dị: vài mái nhà tranh thấp thoáng trong sương như khói; vài đứa trẻ mục đồng đu mình trên lưng trâu thổi sáo dẫn trâu về chuồng; Vài đôi cò trắng tung cánh bay lượn trên cánh đồng…
Hai câu thơ đầu:
Hậu thôn quê yên vui,
Để bán, không phải để bán, cho lợi nhuận tích cực.
(Trước làng, sau làng như khói lồng,
Bóng chiều cuối hình như không).
Đây là cảnh chiều tà, vạn vật trước làng, sau làng dần chìm trong màn sương đang buông dần, quyện với làn khói tỏa ra từ mái bếp. Trong bóng tối man rợ, vạn vật thấp thoáng hiện ra, như có mà như không. Bức tranh quê với những gam màu quen thuộc của ánh hoàng hôn vàng đọng trên ngọn tre, của sương tím, cò trắng, lúa xanh… chỗ đậm, chỗ nhạt, tiếng sáo vi vu gợi cảm giác bâng khuâng. cuộc sống bình yên. trở lại sau nhiều năm khói lửa.
Hình ảnh trong bài thơ không có gì đặc sắc, rất giản dị, đời thường nhưng xúc động lạ lùng. Tại sao? Bởi nhân dân ta đã phải đổ máu, phải chịu biết bao đau thương, tang tóc mới giành lại cuộc sống yên bình từ tay quân xâm lược xâm lược.
Hai câu thơ cuối:
Mu dong, kẻ thù của con bò, đầu hàng,
Con đường trắng song song với cánh đồng chiêm trũng.
(Chàng mục tử thổi sáo trả trâu về, đôi cò trắng tung xuống ruộng.)
Nhà thơ đã lựa chọn hai hình ảnh tiêu biểu cho cảnh làng quê lúc chiều tà: một chú chăn trâu thổi sáo dẫn trâu về chuồng và đôi cò trắng sà xuống cánh đồng trống.
Thơ không chỉ đơn giản là kể - tả mà nó còn thể hiện một cảm xúc lạ lùng, một niềm vui đang rạo rực, rạo rực trong lòng nhà thơ. Nhìn đàn trâu no nê chậm rãi nối đuôi nhau về làng, trên lưng vài mục đồng đang thong thả thổi sáo; Nhìn ra xa (hy vọng), thấy trên đồng lúa xanh mướt, vài đàn cò trắng bay chập chờn, thử hỏi lòng nào không xao xuyến, bâng khuâng, không chan chứa yêu thương?
Cảnh chiều quê được tác giả phác họa thật giản dị, nhưng vẫn đượm màu quê, hồn quê. Điều đó chứng tỏ tác giả là một vị vua xuất thân từ nông dân, đã cùng nhau lăn lộn, vào sinh ra tử với nhân dân để đánh đuổi giặc ngoại xâm, giành lại cuộc sống bình yên cho đất nước. Dù ở địa vị cao nhất nhưng tâm hồn nhà vua - nhà thơ vẫn gắn bó với quê hương, nhân dân.
Bài thơ tuy ngắn nhưng xứng đáng là bài thơ của mọi thời đại bởi dù hàng trăm năm trôi qua nhưng sức lay động và chinh phục lòng người của nó vẫn nguyên vẹn như thuở ban đầu.
Nguồn: Vietvanhoctro.com
[box type=”note” align=”” class=”” width=””]
Dạy
ĐỀ CƯƠNG
I. Giới thiệu
Trần Nhân Tông (1258-1308) là vị vua nổi tiếng nhân từ, thương dân, yêu nước.
-Ông đã cùng với vua cha (Trần Thánh Tông) và các tướng tài như Trần Hưng Đạo, Trần Quang Khải… lãnh đạo nhân dân ta nhiều lần đánh thắng quân Nguyên – Mông xâm lược.
-Bài thơ Chiều đứng ở phủ Thiên Trường trông ra, được vua sáng tác nhân dịp về thăm quê ở phủ Thiên Trường (Nam Định), sau khi đất nước được giải phóng. Nội dung ca ngợi khung cảnh thiên nhiên thôn quê thơ mộng và cuộc sống thanh bình của người dân.
II. Thân hình
* Cảnh chiều ở điện Thiên Trường:
Hai câu thơ đầu:
Hậu thôn làng yên bình,
Bán trạng thái bán dương (Sáng sớm sau thôn như khói lồng Bóng ai chiều dường như không)
-Tả cảnh làng quê lúc chiều tà, sương mù như khói bao trùm cả làng quê, mọi vật thấp thoáng như có, như không. Bức tranh đồng quê với những đường nét, màu sắc nhẹ nhàng, trang nhã.
-Hình ảnh giản dị, quen thuộc nhưng rất gợi cảm (làng quê, sương khói, bóng chiều…)
Hai câu cuối:
Mu dong, kẻ thù của con bò, đầu hàng cuối cùng,
Con đường trắng song song với cánh đồng chiêm trũng.
(Người chăn sáo trả lại cả đàn trâu,
Đôi cò trắng thả xuống ruộng.)
-Tiếp tục tả cảnh: tiếng sáo mục đồng ríu rít, lũ trâu đã về hết, từng đôi cò trắng chao cánh trên cánh đồng lúa xanh.
-Những cảm xúc xao xuyến, cháy bỏng trong trái tim nhà thơ – một vị vua có tâm hồn thơ mộng, xuất thân từ nông thôn, gắn bó mật thiết với quê hương, nhân dân.
III. Kết thúc
Bài thơ ngắn gọn, súc tích nhưng xứng đáng là thi ca của muôn đời.
Vẻ đẹp giản dị và tinh tế của nó để lại dấu ấn khó phai trong lòng người đọc.
PHÂN CÔNG
Trần Nhân Tông (1258-1308) tên thật là Trần Khâm, con trưởng của vua Trần Thánh Tông. Sau khi lên ngôi, ông tỏ ra là một vị vua nổi tiếng nhân ái và yêu nước. Ông đã cùng cha lãnh đạo hai cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Nguyên – Mông lập nhiều chiến công hiển hách (1285, 1288). Vốn là một Phật tử và là người sáng lập dòng Thiền Trúc Lâm theo hướng Việt Nam hóa Phật giáo, đến cuối đời, năm 1298, Ngài xuất gia và trụ trì tại chùa Yên Tử (Quảng Ninh ngày nay). Vua Trần Nhân Tông còn là nhà văn hóa, nhà thơ tiêu biểu của thời Trần.
Bài thơ “Chiều đứng phủ Thiên Trường” hình như được ông sáng tác trong một lần về thăm quê. Các vua Trần xây dựng tại quê hương một cung điện gọi là cung Thiên Trường để thỉnh thoảng về nghỉ ngơi. Mỗi dịp đến đó, các vua thường có thơ lưu lại, nay còn giữ được mấy bài, trong đó có bài này. Không xác định năm sáng tác, nhưng chắc chắn rằng bài thơ ra đời sau chiến thắng Nguyên Mông lần thứ ba không lâu, vào lúc cuộc sống yên bình của nhân dân đang được khôi phục (tức là khoảng những năm 90 của thế kỷ XX). thế kỷ 13).
Phiên âm chữ Hán: Thôn Thiên Trường Văn Vọng Hầu, thôn Tiên Ni Tư Yên,
Để bán, không phải để bán, cho lợi nhuận tích cực.
Mu dong, kẻ thù của con bò, đầu hàng cuối cùng,
Con đường trắng song song với cánh đồng chiêm trũng.
Chiều đứng ở phủ Thiên Trường nhìn ra sau làng, trước làng mờ như sương khói.
Cảnh bóng người chập chờn nửa như có nửa không. Người chăn dắt trâu về nhà theo tiếng sáo. Đôi cò trắng đáp xuống đồng.
Dịch thơ:
Trước thôn, sau thôn như khói lồng. Có phải bóng người trong chiều như bâng khuâng những mục đồng đưa trâu về? Đàn cò trắng từng đôi tung xuống ruộng.
(Ngô Tất Tố dịch)
Bài thơ tả cảnh chiều ở phủ Thiên Trường. Đây là cảnh một vùng quê yên ả như bao cảnh quê khác vào buổi chiều tà. Chỉ vài dòng giản dị: vài mái nhà tranh thấp thoáng trong sương như khói; vài đứa trẻ mục đồng đu mình trên lưng trâu thổi sáo dẫn trâu về chuồng; Vài đôi cò trắng tung cánh bay lượn trên cánh đồng…
Hai câu thơ đầu:
Hậu thôn quê yên vui,
Để bán, không phải để bán, cho lợi nhuận tích cực.
(Trước làng, sau làng như khói lồng,
Bóng chiều cuối hình như không).
Đây là cảnh chiều tà, vạn vật trước làng, sau làng dần chìm trong màn sương đang buông dần, quyện với làn khói tỏa ra từ mái bếp. Trong bóng tối man rợ, vạn vật thấp thoáng hiện ra, như có mà như không. Bức tranh quê với những gam màu quen thuộc của ánh hoàng hôn vàng đọng trên ngọn tre, của sương tím, cò trắng, lúa xanh… chỗ đậm, chỗ nhạt, tiếng sáo vi vu gợi cảm giác bâng khuâng. cuộc sống bình yên. trở lại sau nhiều năm khói lửa.
Hình ảnh trong bài thơ không có gì đặc sắc, rất giản dị, đời thường nhưng xúc động lạ lùng. Tại sao? Bởi nhân dân ta đã phải đổ máu, phải chịu biết bao đau thương, tang tóc mới giành lại cuộc sống yên bình từ tay quân xâm lược xâm lược.
Hai câu thơ cuối:
Mu dong, kẻ thù của con bò, đầu hàng,
Con đường trắng song song với cánh đồng chiêm trũng.
(Chàng mục tử thổi sáo trả trâu về, đôi cò trắng tung xuống ruộng.)
Nhà thơ đã lựa chọn hai hình ảnh tiêu biểu cho cảnh làng quê lúc chiều tà: một chú chăn trâu thổi sáo dẫn trâu về chuồng và đôi cò trắng sà xuống cánh đồng trống.
Thơ không chỉ đơn giản là kể – tả mà nó còn thể hiện một cảm xúc lạ lùng, một niềm vui đang rạo rực, rạo rực trong lòng nhà thơ. Nhìn đàn trâu no nê chậm rãi nối đuôi nhau về làng, trên lưng vài mục đồng đang thong thả thổi sáo; Nhìn ra xa (hy vọng), thấy trên đồng lúa xanh mướt, vài đàn cò trắng bay chập chờn, thử hỏi lòng nào không xao xuyến, bâng khuâng, không chan chứa yêu thương?
Cảnh chiều quê được tác giả phác họa thật giản dị, nhưng vẫn đượm màu quê, hồn quê. Điều đó chứng tỏ tác giả là một vị vua xuất thân từ nông dân, đã cùng nhau lăn lộn, vào sinh ra tử với nhân dân để đánh đuổi giặc ngoại xâm, giành lại cuộc sống bình yên cho đất nước. Dù ở địa vị cao nhất nhưng tâm hồn nhà vua – nhà thơ vẫn gắn bó với quê hương, nhân dân.
Bài thơ tuy ngắn nhưng xứng đáng là bài thơ của mọi thời đại bởi dù hàng trăm năm trôi qua nhưng sức lay động và chinh phục lòng người của nó vẫn nguyên vẹn như thuở ban đầu.
Nguồn: Vietvanhoctro.com
[/box]
#Cảm #nghĩ #về #bài #thơ #Thiên #Trường #Vãn #Vọng
#Cảm #nghĩ #về #bài #thơ #Thiên #Trường #Vãn #Vọng
[rule_1_plain]
Nhớ để nguồn bài viết này: Cảm nghĩ về bài thơ Thiên Trường Vãn Vọng của website c1phungthuong.edu.vn
Chuyên mục: blog
#Cảm #nghĩ #về #bài #thơ #Thiên #Trường #Vãn #Vọng