Phân tích, cảm nhận 4 câu đầu bài Thương vợ của Tế Xương

Phân tích 4 câu đầu của bài Thương vợ, ta đã cảm nhận được tình yêu thương sâu nặng của ông Tú dành cho bà và nỗi đau của một người vợ đối với chồng con. Bằng ngòi bút tinh tế và tài hoa của mình, ông đã miêu tả những nỗi vất vả của vợ một cách chân thực sâu sắc.

1. Lập dàn ý để phân tích và cảm nhận 4 câu đầu bài Thương vợ của Tế Xương một cách ngắn gọn nhất:

1.1. Khai mạc:

– Về tác giả Trần Tế Xương: một nhà Nho tuy cuộc đời ngắn ngủi

– Thương vợ là một trong những bài thơ hay và cảm động nhất của Tú Xương viết về bà Tú

– 4 câu thơ đầu diễn tả nỗi vất vả của người đàn bà – người vợ già

1.2. Thân bài:

1. Hai câu chủ đề

– Hoàn cảnh bà Tú: gồng gánh gia đình, quanh năm bơi “mom sông”

+ Thời gian “quanh năm”: làm việc liên tục, không có ngoại lệ

+ Vị trí “mom sông”: phần đất nhô ra lòng sông không ổn định.

⇒ Công việc và tình hình kinh doanh có nhiều biến động, bấp bênh, bấp bênh

– Lý do:

+ “nuôi”: lo cho mình

xem thêm: Phân tích bài Thương Vợ của Tú Xương tuyển chọn hay nhất

+ “Một chồng đủ năm con”: Một mình bà Tú phải gồng gánh nuôi cả gia đình, không thiếu cũng không thừa.

⇒ Phụ nữ một mình nuôi con là điều bình thường, nhưng bên cạnh đó, phụ nữ cũng phải gánh vác trách nhiệm chăm sóc chồng trong những tình huống bối rối, mâu thuẫn.

+ Dùng thủ đoạn độc tôn “một chồng” bằng “năm con”, ông Tú thừa nhận mình cũng là một đứa con cá biệt. Kết hợp với nhịp 4/3 thể hiện sự vất vả của người vợ.

⇒ Bà Tú là người đảm đang, hết lòng vì chồng con.

2. Hai câu thực

– Lặn lội thân cò khi đi xa: mang ý nghĩa từ câu tục ngữ “Con cò lặn lội bờ sông” nhưng sáng tạo hơn rất nhiều (cách chuyển từ lặn lội sang cắm đầu hoặc thay thân cò bằng thân cò):

+ “Bơi”: Lụt lội, vất vả, cực nhọc, lo lắng

+ Hình ảnh “thân cò”: gợi nỗi vất vả, cô đơn khi làm ăn ⇒ khắc họa nỗi đau thân phận, khái quát

xem thêm: Hoàn cảnh sáng tác bài thơ thương vợ của Trần Tế Xương

+ “trong vắng”: thời gian, không gian rợn ngợp, đầy lo âu, hiểm nguy

⇒ Nỗi vất vả của bà Tú được nhấn mạnh qua nghệ thuật ẩn dụ

– “Eo-sèo”: gợi cảnh chen lấn, xô đẩy, chen lấn ẩn chứa những bất trắc.

+ Tàu thuyền đông đúc: Cảnh chen lấn, xô đẩy trong cảnh đông đúc cũng nguy hiểm và đáng lo ngại

– Nghệ thuật đảo ngữ, tương phản, hoán dụ, ẩn dụ được tạo nên từ những hình ảnh dân gian càng nhấn mạnh sự vất vả của bà Tú.

⇒ Hiện thực cuộc sống mưu sinh của bà Tú: Không gian và thời gian thật đáng sợ và nguy hiểm, đồng thời cũng thể hiện tấm lòng hiền lành, nhân hậu của ông Tú.

READ  Top 8 trường cung cấp khóa học từ xa

1.3. Kết thúc:

– Khẳng định lại những nét tiêu biểu về nghệ thuật tạo nên nội dung 4 câu đầu của bài Thương vợ

– Liên hệ, bày tỏ quan điểm, suy nghĩ của mình về người phụ nữ trong xã hội hiện nay.

xem thêm: Sơ đồ tư duy Thương vợ dễ đọc, dễ hiểu, dễ nhớ

2. Phân tích 4 câu đầu của bài thơ Thương Vợ Tú Xương:

Trần Tế Xương (bút danh Tú Xương) là một nhà văn trào phúng nổi tiếng, có lẽ là nhà văn trào phúng độc đáo nhất trong nền văn học nước nhà. Thơ trào phúng, đả kích, đả kích của Tú Xương được nhiều người yêu thích vì đậm chất trữ tình (trong tiếng cười có nước mắt). Dòng trữ tình trong thơ Tú Xương có lúc được tách ra thành dòng trữ tình rõ ràng và sâu sắc. Hai kiệt tác “Sóng lấp” và “Thương vợ” tiêu biểu cho dòng trữ tình của Tú Xương. Đặc biệt là bốn dòng đầu của bài thơ.

“Quanh năm buôn bán trên sông mẹ,
Nuôi năm đứa con với một người chồng.
Bơi thân cò khi đường dài,
Mặt nước vào mùa đông.

Trần Tế Xương chật vật trong kỳ thi, thi đến lần thứ tám mới đỗ tú tài. Ông học giỏi nhưng lại quá ngu, thực ra thái độ ngu của ông là một cách phản đối chế độ thi cử lậu và các quan “cẩu thả” thời bấy giờ. Nếu đỗ tú tài còn được làm “quan tại gia”. Khi đó phải đỗ cử nhân mới được bổ làm Tri huyện. Thế là bà Tú gần như phải nuôi chồng đến hết đời. Ông Tú chỉ biết đem cái tài của mình để ghi công cho bà Tú:

“Quanh năm buôn bán trên sông mẹ,
Nuôi năm đứa con với một người chồng.”

Chữ “mẹ” thật đẹp, mới thấy được nỗi vất vả của bà Tú quanh năm làm thuê ở bến sông, đồng thời thấy được tấm lòng yêu thương của nhà thơ đối với người vợ cần mẫn của mình. Từ “mẹm” là sự tổng hợp nghĩa của các từ bờ, bãi, ghềnh, thềm thành một từ ngữ sáng tạo của nhà thơ làm giàu thêm tiếng Việt. Bà Tú quanh năm buôn thúng ở “mom sông” nuôi chồng nuôi con:

“Một chồng nuôi năm con”

Câu thơ chỉ mấy con số khô khan mà sao tinh tế đến thế! “Nuôi cả năm con” là vì con, nên nuôi mới tính đến việc nuôi con. Nhưng một chồng là một chồng, nếu không nhiều chồng sao lại “một chồng”? Cũng vì chồng mà phải nuôi, nhưng gánh nặng nuôi năm đứa con lên vai bà Tú đã vất vả, thêm ông Tú trong nhà là gánh nặng gấp đôi. Thuở ấy nuôi Tú, Tú Xương gặp muôn vàn khó khăn.

Nhưng bà Tú cũng được an ủi vì ông Tú tưởng đùa, đi đâu cũng để ý đến bà:

xem thêm: Cảm nhận tâm sự của Tú Xương trong bài Thương vợ

READ  Phân tích thành ngữ Thi trung hữu họa qua bài thơ Tây Tiến

“Nuốt xác cò nơi vắng,
Vắt mặt nước mùa đông”

Có thể nói tình yêu thương vợ của nhà thơ dạt dào trong hai câu thơ này. Hình ảnh con cò đang bơi được mô phỏng theo một biểu tượng trong thơ ca dân gian để nói về người phụ nữ lao động:

“Con cò lặn lội bờ sông
Gánh chồng khóc nhè”

Nếu đảo từ “lặn lội” lên trước chủ ngữ để nhấn mạnh sự vất vả của bà Tú thì từ “lặn lội” lại gợi âm hưởng hỗn hợp (mặc cả, tranh cãi). Hai tình huống tương phản thật đẹp: “vắng” và “đông”. Người đàn bà gánh hàng khổ sở đi trên đường vắng. Nhưng đến chỗ “đông thuyền” thì mới hãi thật! Nghĩa là nhà thơ yêu vợ từ cả hai phía, tình yêu thật thấm thía và cảm động.

Tóm lại, Thương Vợ là một bài thơ hay, giàu giá trị cảm xúc của Tú Xương. Cái hay là ở cách dùng từ, hình ảnh trong ca dao, thành ngữ của Tú Xương. Bài thơ dạt dào cảm xúc chân thành, ca từ giản dị mà sâu sắc, thể hiện tình yêu thương, kính trọng mà Tú Xương dành cho vợ. Bên cạnh đó, bài thơ còn thể hiện những đức tính cao quý của người phụ nữ Việt Nam trong xã hội cũ nói chung và bà Tú nói riêng.

3. Phân tích 4 câu đầu của bài thơ Vợ Thu Xương ấn tượng nhất:

Dưới thời phong kiến, thân phận của người phụ nữ lấy chồng bị coi thường, nhơ nhớp. Văn học là tấm gương phản chiếu hiện thực, nhưng văn học trung đại chưa bao giờ quan tâm đến phụ nữ, đặc biệt là Tú Xương. Rất ít nhà văn, nhà thơ thời bấy giờ dám viết về vợ. Qua khổ thơ đầu của bài thơ Thương Vợ, ta thấy một Tú Xương nhân hậu:

“Quanh năm buôn bán trên dòng sông mẹ
Nuôi năm đứa con với một người chồng
Lặn tìm cò nơi vắng
Vắt mặt nước mùa đông”

Tú Xương (1870-1907) tên khai sinh là Trần Tế Xương, là một nghệ sĩ, trí thức trong thời phong kiến. Tú Xương nổi bật ở hai mảng thơ trào phúng và trữ tình. Cả cuộc đời Tú Xương gần như chỉ bận rộn với việc học hành và thi cử. Mọi việc trong gia đình đều do bà Tú Xương quán xuyến. Anh trân trọng, biết ơn và xấu hổ với vợ. Bài thơ Thương vợ gửi gắm tình cảm ấy. Trong đó, 4 câu thơ đầu là hình ảnh chân thực về một bà Tú – khắc khổ nhưng dũng cảm, cần cù, giàu đức hi sinh.

xem thêm: Phân tích hình ảnh ông Tú trong bài thơ Thương vợ hay nhất

Để thể hiện điều đó, Tú Xương mở đầu bằng việc giới thiệu tác phẩm của bà Tú:

“Quanh năm buôn bán trên sông mẹ”

Nghề của bà Tú là buôn bán, một công việc không phù hợp với một người xuất thân “con nhà gia giáo” như bà Tú. Bà Tú buộc phải tham gia vào chốn ồn ào, náo nhiệt và phức tạp. Vì lúa thưa nên họ phải làm lụng vất vả. Suốt “quanh năm” bà Tư làm việc không ngừng nghỉ. Trạng ngữ chỉ thời gian “quanh năm” đặt ở đầu câu càng nhấn mạnh điều này. Về không gian làm việc, Tú Xương dùng từ mẹ sông. Sông Mom là một mảnh đất nhô ra, ba mặt đều có nước bao bọc. Nó gợi lên sự gắn bó và nguy hiểm. Một câu thơ ngắn nhưng người đọc có thể thấy được một chân dung người phụ nữ cần cù.

READ  Bỏ túi ngay thông tin luận văn thạc sĩ đầy đủ nhất 2022

Tuy nhiên, bà Tú vẫn đủ sức nuôi gia đình:

“Một chồng nuôi năm con”

Bà Tú “ăn vừa đủ”, không nhiều quá, không ít quá. Một mình bà Tú gồng gánh trên vai 5 đứa con thơ và “một chồng”. Hơn nữa, từ “có” tạo nên sự cân bằng giữa “năm con” và “một chồng”. Điều này ngầm so sánh gánh nặng nuôi chồng của bà với cả 5 người con. Dường như Tú Xương đang tự giễu chính mình. Anh xấu hổ với vợ và tự giễu mình chỉ là một người đàn ông vô dụng, chỉ là một người chồng bất cẩn, kiêu ngạo.

Đoạn thơ tiếp theo, Tú Xương miêu tả chân dung bà Tú qua hành động:

“Lặn bão trong vắng”

xem thêm: Cảm nghĩ về hình tượng bà Tú trong bài Thương vợ siêu hay

Không phải bỗng dưng Tú Xương chuyển nội dung bài thơ sang thân cò, thân vạc. Tú Xương đang mượn thân cò để đại diện cho hình ảnh bà Tú.

“Con cò lặn lội bờ ao
Cõng cơm cho chồng khóc khe khẽ”

Bà Tú, như trong câu ca dao xưa, gánh nặng nuôi chồng con cực nhọc mà bà Tú ngày đêm đi làm cũng không đủ. Không còn là “mom sông”, hình tượng nhân vật chuyển sang không gian của “cánh đồng trống”, nơi luôn có những “hố tử thần” sẵn sàng cướp đi sinh mạng của bất kỳ ai vô tình sa ngã.

Tú Xương đặt động từ “lặn lội” ở đầu câu để nhấn mạnh chân dung nhân vật. Nó gợi những bước chân chùn bước, mò mẫm trong bùn, qua đó cho thấy nỗi vất vả của bà Tú.

Bà Tú hiện ra giữa không gian đông đúc. Lại một chân dung người phụ nữ đấu tranh giành giật với sự sống. Ngoài ra, từ tượng thanh “eo sèo” bổ nghĩa cho “mặt nước” khiến người đọc liên tưởng đến không gian bao la của mặt nước, những con sóng lăn tăn tung bọt trắng xóa, dòng nước cuộn xoáy như biển cả.

Tóm lại, 4 dòng đầu của bài thơ Thương vợ đã thể hiện nhiều nét nghệ thuật trong cách dùng từ, sáng tạo ngôn ngữ, diễn đạt… của Tú Xương. Qua bài thơ, Tú Xương không chỉ ca ngợi vẻ đẹp, lòng dũng cảm, sự chịu thương chịu khó, đức hi sinh của bà Tú mà còn bày tỏ nỗi tủi hổ của chính tác giả. Điều này khẳng định Tú Xương là người có tấm lòng nhân đạo sâu sắc.